Rời Đèo Ngang đây là bà rời Đàng Ngoài xưa để bước vào nơi Đàng Trong. Nỗi buồn sầu phải rời xa quê hương cùng với lịch sử xa xứa của Đèo Ngang đã khiến tâm hồn đa cảm của nữ sĩ đã khiến bà viết nên hai câu thơ thật buồn. Nơi Đèo Ngang heo hút, sự sống con người vắng vẻ và xơ xác. Nhiều hơn là sự hòang dã của cỏ cây muông thú.
Bài thơ 'Qua Đèo Ngang' là tiếng nói của một người mà trở thành khúc tâm tình của muôn triệu người, nó là bài thơ một thời mà mãi mãi, bài thơ Non Nước. BÀI SỐ 68. Phân tích bài thơ: 'Qua Đèo Ngang'của Bà Huyện Thanh Quan (bài 2).
"Qua Đèo Ngang" là bài thơ thất ngôn bát cú Đường luật tuyệt bút. Thế giới thiên nhiên kỳ thú của Đèo Ngang như hiển hiện qua dòng thơ. Cảnh sắc hữu tình thấm một nỗi buồn man mác. Giọng thơ du dương, réo rắt. Phứp đối và đảo ngữ có giá trị thẩm mỹ trong nét vẽ tạo hình đầy khám phá.
Qua việc tìm hiểu, phân tích bà thơ "Qua Đèo Ngang" của bà, chúng ta sẽ làm sáng tỏ nhận định trên. Mở đầu bài thơ là lời giới thiệu khái quát tòan cảnh không gian và thời gian: " Bước tới Đèo Ngang bóng xế tà" Không gian là Đèo Ngang, thời gian là buổi xế tà. Nhà thơ đến với Đèo Ngang khi một ngày vừa lụi tắt.
SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO ĐẮK LẮK Cuộc thi thiết kế hồ sơ bài giảng điện tử Bài giảng Văn bản : QUA ĐÈO NGANG Chương trình Ngữ văn, lớp 7 Thực hiện : Tổ Ngữ Văn Trường THCS Nguyễn Tri Phương Huyện Cưmgar, tỉnh Đăk
Đó cũng là lời thề quyết tâm của những chiến sỹ Tây Tiến " Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh " . b) Thân bài: Phân tích 4 câu thơ cuối của bài thơ Tây Tiến. * Hai câu đầu: "Tây Tiến người đi… chia phôi". - Người chiến sỹ ra đi với quyết tâm sắt đá, có chí
w5TU. I. DÀN Ý1. Mở bài– Đèo Ngang là ranh giới tự nhiên ngăn cách giữa hai tỉnh Hà Tĩnh và Quảng Bình. Đây cũng là một thắng cảnh thiên nhiên nổi tiếng.– Rất nhiều thi sĩ đã làm thơ tả cảnh đèo Ngang, trong đó nổi tiếng nhất là bài Qua đèo Ngang của Bà Huyện Thanh Quan.– Tác giả sáng tác bài thơ này trong dịp từ Thăng Long vào Huế để nhậm chức Cung trung giáo tập nữ quan dạy dỗ nghi lễ cho các cung nữ.– Đằng sau bức tranh phong cảnh là tâm trạng cô đơn và hoài niệm về một thời đại phong kiến huy hoàng đã qua, không bao giờ trở Thân bài* Hai câu đề+ Câu thứ nhất Bước tới đèo Ngang bóng xế tà.– Thời điểm nữ sĩ đặt chân tới đèo Ngang là lúc hoàng hôn bắt đầu buông xuống.– Cảnh vật rất dễ gợi buồn trong lòng người lữ thứ.+ Câu thứ hai cỏ cây chen đá, lá chen hoa.– Miêu tả khung cảnh thiên nhiên hoang sơ, tràn đầy sức sống của đèo Ngang qua điệp từ chen và hai vế đối cỏ cây chen đá lá chen hoa.– Cảnh đẹp nhưng vẫn nhuốm màu buồn tẻ, quạnh hiu của một miền sơn cước.* Hai câu thực+ Câu thứ ba Lom khom dưới núi tiều vài chú.– Đảo ngữ trong câu đặc tả dáng vẻ mấy tiều phu kiếm củi sườn núi, nhấn mạnh sự nhỏ bé, ít ỏi của con người trước thiên nhiên hùng vĩ.+ Câu thứ tư Lác đác ven sông chợ mấy nhà.– Hình ảnh ngôi chợ là bộ mặt của cuộc sống một vùng nhưng ở đây, chợ chỉ là vài túp lều tranh xiêu vẹo ven sông.– Không khí vắng vẻ, quạnh hiu bao trùm lên cảnh vật.* Hai câu luận+ Câu thứ 5 Nhớ nước đau lòng con cuốc cuốc.– Tiếng cuốc kêu khắc khoải lúc chiều buông càng làm cho không gian thêm tĩnh lặng.– Có thể là tiếng cuốc kêu mà cũng có thể là tiếng vọng từ trong tâm tưởng hoài cổ của nữ sĩ đang nuối tiếc thời đại huy hoàng đã qua, thể hiện nỗi buồn trĩu nặng, khó nguôi ngoai.– Nghệ thuật đối câu câu 5 >< con người nhỏ bé.+ Cậu thứ 8 Một mảnh tình riêng ta với ta.– Nét tương phận càng tô đậm sự cô đơn, buồn bã trong lòng người.– Nỗi buồn không thể san sẻ nên kết tụ lại trong lòng thành mảnh tình riêng, chỉ có ta với ta mà thôi.– Âm hưởng, nhịp điệu câu thơ giống như một tiếng thở dài ngậm ngùi, nuối Kết bài– Qua đèo Ngang được đánh giá là một bài thơ xuất sắc, thể hiện tài năng và tấm lòng yêu mến non sông, đất nước của nữ sĩ.– Thể thơ Đường luật sang trọng đã trở nên gần gũi, dễ hiểu bởi ngôn ngữ trong sáng và những hình ảnh dân dã, quen thuộc.– Bài thơ có sức sống vĩnh cửu trước thời gian và trong lòng nhiều thế hệ yêu thơ.
Bài mẫu Phân tích bài thơ Qua đèo Ngang Cùng CungHocVui tham khảo bài mẫu phân tích bài thơ Qua đèo ngang dưới đây để hiểu rõ hơn về tác phẩm, tâm trạng của tác giả. Từ đó có thể hoàn thành các đề văn liên quan đến tác phẩm tốt nhất Phân tích Qua đèo Ngang - Bà Huyện Thanh Quan Mở bài phân tích bài thơ qua đèo ngang “Có nơi đâu đẹp tuyệt vời Như sông như núi, như người Việt Nam” Câu thơ thể hiện niềm tự hào và hãnh diện về núi non và bầu trời Việt Nam. Thiên nhiên ở quê hương chúng ta có vẻ đẹp như mơ, tràn đầy sức sống. Do đó, thiên nhiên luôn là một chủ đề thơ vô tận. Đôi khi nó lấp lánh, huyền diệu như trong một giấc mơ, đôi khi rực rỡ, đẹp như mặt trời. Nhưng đồng thời, cảnh này cũng sẽ nhuốm màu ảm đạm, ảm đạm dưới con mắt của các nhà thơ mang đến một tâm trí hoài cổ khi sáng tác một bài thơ giận dữ. Chính vì vậy, nhà thơ vĩ đại Nguyễn Du từng nói “Người ta không bao giờ hạnh phúc khi buồn”. Câu thơ rất phù hợp khi áp dụng vào tình cảnh Bà Huyện Thanh Quan khi viết bài thơ Qua Đèo Ngang. Xem thêm Cảm nhận bài qua đèo ngang Bài thơ qua đèo ngang hoàn cảnh sáng tác, nội dung, dàn ý phân tích Thân bài phân tích bài thơ qua đèo ngang “Bước tới đèo Ngang bóng xế tà.” Cỏ và cây cối vắt qua đá, lá hoa rủ xuống núi, một vài chú tiều phu bên bờ sông, một số chợ chiều làm bà nhớ về đất nước và đau lòng. “Thương nhà mỏi miệng cái gia gia Dừng chân đứng lại, trời non, nước Một mảnh tình riêng, ta với ta.” Phải hiểu và yêu thích bài thơ mới thấy hết tài năng cũng như tư tưởng hướng về quê hương đất nước và Bà Huyện Thanh Quan. Ai dám nói rằng phụ nữ trong một xã hội phong kiến không có những cảm xúc thiêng liêng đó? Chỉ cần đọc hai câu đầu tiên của bài thơ là ta đã nhận ra ngay ra một nỗi buồn xa vắng. “Bước tới đèo Ngang bóng xế tà Cỏ cây chen đá, lá chen hoa” Câu thơ xuất hiện với những cụm từ và sự hiện diện của thông điệp xen kẽ với vần điệu của lá và đá, tạo ra sự cô đơn và đơn độc. Yếu tố thời gian làm cho câu thơ thậm chí còn buồn hơn. Ca dao cũng cho biết “Vẳng nghe chim vịt kêu chiều Bâng khuâng nhớ mẹ, chín chiều ruột đau” Điều đó có nghĩa là, cảm xúc cao quý của mỗi người dường như gặp nhau tại một thời điểm. Đến lúc rồi. Nhưng thời điểm thích hợp nhất để thể hiện những ký ức khao khát muốn của bà là khi buổi chiều đến. Xem thêm Dàn ý phân tích bài thơ Qua đèo ngang Trong bài thơ Qua Đèo Ngang, tác giả bất ngờ bày tỏ cảm xúc man mác khi bắt gặp cảnh hoàng hôn bao trùm khung cảnh ở núi Hoành Sơn. Cảnh tượng lại buồn bã bởi thông điệp được chèn vào câu thứ hai. Nó làm cho người đọc thơ bỗng cảm nhận được sự hoang dã của ngang qua vào lúc hoàng hôn, bóng tối mặc dù nó rất đẹp có cây cối, đá, lá, hoa. Bởi vì nó quá vắng vẻ ở đây, nhà thơ đã mở mắt ra để tìm kiếm một cái gì đó được gọi là một cuộc sống năng động. Và ở đó, xa dưới chân đèo xuất hiện hình ảnh “Lom khom dưới núi tiều vài chú Lác đác bên sông, chợ mấy nhà” Phân tích bài thơ Qua đèo Ngang - Bà Huyện Thanh Quan Câu thơ gợi lên mô tả về hoàng hôn lạnh lẽo, những người tiều phu, các hàng chợ sắp tàn trong bóng chiều. Một chữ tượng hình mang hai từ được xếp xen kẽ trong đầu câu đã được tác giả sử dụng như một sự nhấn mạnh vào nỗi nhớ ở đây. Nhà thơ tìm kiếm một cuộc sống, nhưng cuộc sống đó làm cho cảnh càng mặn mà, buồn hơn, xa xôi hơn. Sự đối lập vốn có của hai câu thực sự làm cho cảnh trên sông và dưới ngọn núi trở nên rời rạc và thưa thớt hơn. Từ lác đác, nó dường như thêm vào sự cô độc của nơi này. Trong sự cô độc đó, đột nhiên, tiếng kêu man rợ của loài chim quốc quốc, con chim gia gia trong hoàng hôn đang rơi xuống. Đó có phải là cảm giác của loài chim quốc và chim gia, con chim gia mà tác giả cảm nhận hay đó là nghệ thuật ẩn dụ để thể hiện cảm xúc của nữ nghệ sĩ từ sâu thẳm tình yêu đất nước hay tình yêu của ngôi nhà? Quốc, gia là Tổ quốc và gia đình Bà Huyện Thanh Quan lúc bấy giờ? Sự tương đồng giữa ý tưởng và lời nói của hai câu thơ trong bài luận của bài thơ này nhằm nhấn mạnh tình yêu của Bà Huyện Thanh Quan dành cho Tổ quốc, gia đình bà khi đối mặt với một cảnh như vậy. Từ thực tế của xã hội đương đại mà bà đang sống đến cảnh thật của Qua Đèo Ngang, tác giả nhắc nhở mình về cái tôi và tâm sự “Dừng chân đứng lại trời non nước Một mảnh tình riêng ta với ta.” Ở cuối bài viết, chúng tôi cảm thấy rằng nhà thơ có những suy nghĩ hoài cổ về quá khứ. Tạm dừng và nhìn cô ấy chỉ thấy trời, non, nước. Vũ trụ quá rộng lớn, xung quanh cô là một bầu trời với những ngọn núi, với những dòng sông làm cho mọi người cảm thấy nhỏ bé, cô đơn, trống rỗng, ở đây, chỉ có bà và bà, nhiều mảnh tình yêu dành cho nước, cho ngôi nhà trong dòng máu đã làm cho trái tim của các nhà thơ tê liệt. Phân tích bài thơ Qua đèo Ngang - Bà Huyện Thanh Quan Vũ trụ quá rộng lớn! Những người cô đơn cũng vậy! Tất cả được mô tả dưới cây bút tài năng của nữ nghệ sĩ, vì vậy bài thơ là một bức tranh độc đáo. Từ ta là minh chứng cho nghệ thuật khéo léo trong sáng tác thơ của Bà Huyện Thanh Quan. Bởi vì chúng tôi ở bên tôi, nhưng nhà thơ Nguyễn Khuyến nói “Bác đến chơi đây ta với ta” Đó là sự kết hợp của hai người hai nhưng một, một nhưng hai. Và bà Huyện Thanh Quan “Một mảnh tình riêng ta với ta.” Đã làm nổi bật sự cô đơn, cô đơn của bà. Thông qua câu thơ, chúng ta dường như cảm nhận sâu sắc hơn sự tự tôn của tác giả trước cảnh tình yêu của quê hương... Sau khi phân tích bài thơ, tôi thấu hiểu sâu sắc hơn và thấm sâu vào tình cảm của một nữ nhà thơ trong xã hội cổ đại, giúp tôi yêu đất nước và con người Việt Nam ngày càng nhiều hơn. Tôi cảm thấy vững vàng trong suy nghĩ của mình và có những suy nghĩ tích cực hơn, góp phần xây dựng quê hương Việt Nam ngày càng giàu đẹp, giữ lại những di tích do người xưa để lại như gửi, nhắc nhở đến chúng tôi. Từ quá khứ đến nay, nhiều nhà thơ đã miêu tả cảnh Đèo Ngang, nhưng không ai thành công như Bà Huyện Thanh Quan bởi trong tác phẩm của bà có tâm hồn, tình cảm, trái tim và tài năng của một nhà văn tuyệt vời. Toàn bộ bài thơ được vần "a" như nỗi nhớ của tác giả. Chúng tôi thậm chí không tìm thấy một chút tiếng ồn trong mô tả. Tất cả chỉ là yên tĩnh, bao la như tâm trí của chính tác giả. Những lời thơ mộng khiến người đọc cảm thấy xúc động cũng là cảm xúc sâu lắng của Bà Huyện Thanh Quan khi chị đặt chân lên đèo Ngang trong khung cảnh núi non khi hoàng hôn buông xuống. Những cảm xúc tương tự, chúng ta sẽ gặp lại nhau khi chúng ta đọc bài học buổi tối vô gia cư của cô ấy với câu “Trời chiều bảng lảng bóng hoàng hôn Tiếng ốc xa đưa, vẳng trống dồn.” Kết bài phân tích bài thơ qua đèo ngang Để bày tỏ lòng biết ơn đối với nhà thơ đã cho chúng ta những câu thơ đầy tình cảm tốt đẹp bắt nguồn từ tận đáy tâm hồn, từ sự rung cảm thực sự, người ta đã đặt tên làng, tên đường phố Bà Huyện Thanh Quan mãi mãi được thế hệ sau ghi nhớ tài năng cũng như tư tưởng tuyệt vời của con người và người phụ nữ đối với đất nước và lịch sử.
a. Mở bài – Giới thiệu tác giả Bà Huyện Thanh Quan. – Giới thiệu tác phẩm “Qua Đèo Ngang”. b. Thân bài – Hai câu đề + Câu thứ nhất Bước tới đèo Ngang bóng xế tà Thời điểm nữ sĩ đặt chân tới đèo Ngang là lúc hoàng hôn bắt đầu buông xuống. Cảnh vật rất dễ gợi buồn trong lòng người lữ thứ. + Câu thứ hai cỏ cây chen đá, lá chen hoa Miêu tả khung cảnh thiên nhiên hoang sơ, tràn đầy sức sống của đèo Ngang qua điệp từ chen và hai vế đối cỏ cây chen đá lá chen hoa. Cảnh đẹp nhưng vẫn nhuốm màu buồn tẻ, quạnh hiu của một miền sơn cước. – Hai câu thực + Câu thứ ba Lom khom dưới núi tiều vài chú Đảo ngữ trong câu đặc tả dáng vẻ mấy tiều phu kiếm củi sườn núi, nhấn mạnh sự nhỏ bé, ít ỏi của con người trước thiên nhiên hùng vĩ. + Câu thứ tư Lác đác bên sông chợ mấy nhà Hình ảnh ngôi chợ là bộ mặt của cuộc sống một vùng nhưng ở đây, chợ chỉ là vài túp lều tranh xiêu vẹo ven sông. Không khí vắng vẻ, quạnh hiu bao trùm lên cảnh vật. – Hai câu luận Nhớ nước đau lòng con quốc quốc/ Thương nhà mỏi miệng cái gia gia + Tiếng cuốc kêu khắc khoải lúc chiều buông càng làm cho không gian thêm tĩnh lặng. + Có thể là tiếng cuốc kêu mà cũng có thể là tiếng vọng từ trong tâm tưởng hoài cổ của nữ sĩ đang nuối tiếc thời đại huy hoàng đã qua, thể hiện nỗi buồn trĩu nặng, khó nguôi ngoai. + Nghệ thuật đối câu câu 5 > + Điều băn khoăn lớn nhất của nữ sĩ không ngoài chuyện của quốc gia, của thời đại. – Hai câu kết + Câu thứ 7 Dừng chân đứng lại, trời, non, nước Cảnh đẹp của đèo Ngang thật hùng vĩ, khiến nữ sĩ phải dừng chân để chiêm ngưỡng, để thu nhận vẻ đẹp kì diệu ấy vào tâm hồn. Giữa cảnh vật và lòng người có nét tương phản thiên nhiên cao rộng > + Câu thứ 8 Một mảnh tình riêng ta với ta Nét tương phản càng tô đậm sự cô đơn, buồn bã trong lòng người. Nỗi buồn không thể san sẻ nên kết tụ lại trong lòng thành mảnh tình riêng, chỉ có ta với ta mà thôi. Âm hưởng, nhịp điệu câu thơ giống như một tiếng thở dài ngậm ngùi, nuối tiếc. c. Kết bài – Qua đèo Ngang được đánh giá là một bài thơ xuất sắc, thể hiện tài năng và tấm lòng yêu mến non sông, đất nước của nữ sĩ. – Thể thơ Đường luật sang trọng đã trở nên gần gũi, dễ hiểu bởi ngôn ngữ trong sáng và những hình ảnh dân dã, quen thuộc. – Bài thơ có sức sống vĩnh cửu trước thời gian và trong lòng nhiều thế hệ yêu thơ. 2. Phân tích tác phẩm Qua Đèo Ngang “Qua đèo Ngang” là một tác phẩm nổi tiếng của bà Huyện Thanh Quan. Bài thơ được viết khi bà lên đường đến huyện Phú Xuân đi qua đèo ngang là một địa danh phong cảnh hữu tình. Bài thơ là bức tranh ngụ tình sâu sắc của nhà thơ qua đó hé lộ cho chúng ta thấy được nỗi nhớ mong tha thiết của tác giả hiện lên rõ nét. Mở đầu bài thơ là hai câu đề Bước tới đèo ngang bóng xế tà Cỏ cây chen lá đá cheo hoa Câu thơ gợi lên thời điểm mà tác giả tới đèo Ngang, khi đó thời gian đã vào xế tà tức là trời đã quá buổi chiều và đang chuyển sang tối. Đối với một vùng hoang sơ hẻo lánh thì thời điểm chiều tà cũng là thời điểm mọi người đã quay trở về nhà. Phải chăng chọn thời điểm như thế tác giả muốn nhấn mạnh cho người đọc cái xơ xác vắng vẻ nơi đây? Và từ đây tâm trạng tác giả bắt đầu hỗn loạn khi chứng kiến cảnh vật từ trên cao nhìn xuống. Vừa đặt chân đến chốn đây cũng là lúc mặt trời đổ bóng. Thời gian lúc này là “bóng xế tà” là khoảng thời gian kết thúc của một ngày. Xưa kia văn thơ trung đại người ta thường chỉ lấy buổi chiều làm hình ảnh trong thi phẩm chỉ khi lòng người mang đậm nỗi buồn. “Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”, phải chăng là nỗi lòng bà huyện Thanh quan tài năng kia cũng mang một nỗi niềm về thế thời. Từ “chen” được điệp đến hai lần trong một câu thơ như tăng thêm chất hiu quạnh hơn. Nghệ thuật tiểu đối trong cùng một câu tạo nên nhịp thơ đăng đối hài hoà. Thêm đó lại càng làm bức tranh chiều tăng thâm phần hiu quạnh. Hai câu thực là khi tác giả đang ở trên đèo cao, phóng mắt nhìn về xung quanh, xa hơn những đá núi, cây cỏ để tìm đến bóng dáng con người Lom khom dưới núi tiều vài chú Lác đác bên sông chợ mấy nhà Hình ảnh con người đã hiện ra nhưng dường như chỉ làm bức tranh thêm hiu hắt. Tác giả sử dụng biện pháp đảo ngữ cùng với từ láy gợi tả để thể hiện lên điều này. Con người ở đây chỉ có “tiều vài chú” kết hợp với từ láy “lom khom” dưới núi. Cảnh vật thì “lác đác”, “chợ mấy nhà”. Tất cả quá nhỏ bé so với cảnh thiên nhiên hùng vĩ của đèo Ngang. Dường như không khí vắng vẻ, hiu quạnh bao trùm lên toàn cảnh vật. Hai câu luận là nỗi buồn của thi sĩ trước cảnh giang sơn đất nước đang ngày một lụi tàn Nhớ nước đau lòng con quốc quốc Thương nhà mỏi miệng cái gia gia Tiếng kêu của con quốc hay chính là tiếng lòng tác giả. “Nhớ nước đau lòng con quốc quốc” là câu thơ bắt nguồn từ điển tích xưa về vua Thục vì mất nước mà hóa thành con cuốc chỉ biết kêu những tiếng đau thường. Tiếng cuốc kêu khắc khoải càng làm bóng chiều trở nên dịu vợi. Còn tiếng “gia gia” là tiếng kêu tha thiết gợi nỗi “thương nhà”. Thương nhà ở đây có lẽ là nỗi nhớ thương đất nước trong quá khứ hào hùng hay cũng là thương cho sự đổi thay, sự lụi tàn của quê hương. Những xúc cảm của thi sĩ được bộc lộ một cách trực tiếp bằng hai câu luận. Nghệ thuật chơi chữ đồng âm độc đáo kết hợp với biện pháp nhân hóa ” đau lòng” “mỏi miệng” cùng chuyển đổi cảm giác từ nỗi lòng thành tiếng thương tạo ấn tượng mạnh đã cho ta thấy bức tranh ấy không chỉ là cảnh vật mà còn là bức tranh tâm trạng của Bà Huyện Thanh Quan với tình yêu thương nước nhà. Dừng chân đứng lại trời non nước Một mảnh tình riêng ta với ta Non nước giờ đây hiện hữu trước mắt nhưng thay vì thấy sự hùng vĩ tráng lệ thì ta lại vẫn buồn vì những chữ “dừng chân đứng lại”. Phải chăng cái dừng chân ấy có phải là cái dừng chân, cái dáng đứng bất lực trước thế thời của tác giả. Mảnh đất bao la của “quốc gia” mà lòng người thấy cô đơn lạc lõng biết bao, đứng trước cái mênh mông ấy nên bà chỉ cảm thấy “mảnh tình con con”. Bởi thế mà cụm từ đầy sáng tạo “ta với ta” thêm khắc sâu nỗi buồn man mác trĩu nặng lòng người hơn. Bài thơ Qua Đèo Ngang đã thành công khi chuyển tải được tâm sự u buồn của Bà Huyện Thanh Quan, đồng thời lồng ghép vào đó là cảnh tượng thiên nhiên rất thực, rất sinh động của một con đèo nổi tiếng trong thơ ca và trong lịch sử nước ta. Bài thơ không chỉ thành công về mặt ý nghĩa mà còn rất chỉnh chu trong việc dùng từ, tạo câu thật đặc sắc gây thích thú cho người đọc, người nghe. 3. Cảm nhận bài thơ Qua Đèo Ngang Trong nền văn học Trung đại Việt Nam có lẽ sẽ chẳng ai quên được hai nữ nhà thơ tài năng Hồ Xuân Hương và Bà Huyện Thanh Quan. Nếu ở bà chúa thơ Nôm ta thấy nét bứt phá, hơi nổi loạn thì ta lại tìm thấy những xúc cảm trầm buồn nhẹ nhàng ở Bà Huyện Thanh Quan, tiêu biểu đó là bài “Qua đèo ngang”. Sáng tác trong một lần tác giả đi vào Huế để nhậm chức. Trên đường có đi qua địa danh này, nỗi lòng yêu nước nhớ quê hương, xót nước lại trào dâng làm cảm hứng để tác giả ngẫu hứng bật ra những vần thơ. Mở đầu là hai câu đề khắc họa cảnh vật thiên nhiên nơi đèo Ngang Bước đến đèo Ngang bóng xế tà Cỏ cây chen đá lá chen hoa Chỉ bằng hai câu thơ, Bà Huyện Thanh Quan đã khắc họa một cách khái quát nhất về thời gian, không gian, cảnh vật nơi đèo Ngang. Cách mở đầu vô cùng tự nhiên “bước đến đèo Ngang” vào thời gian “bóng xế tà”, đây là thời điểm kết thúc của một ngày, khi con người thường trở về nhà sau một ngày lao động vất vả. Vậy mà nhà thơ lại một mình tại nơi đèo Ngang càng khiến cho nỗi cô đơn trở nên tột cùng. Lại đứng trước khung cảnh thiên nhiên Đèo Ngang rộng lớn mà hoang vu. “Cỏ cây chen đá, lá chen hoa” là hình ảnh ước lệ mang tính biểu tượng. Việc sử dụng điệp từ “chen” kết hợp với hình ảnh “đá, lá, hoa” gợi ra một thiên nhiên tuy hoang sơ nhưng lại tràn đầy sức sống. Có thể thấy khung cảnh thiên nhiên Đèo Ngang được nhà thơ khắc họa chỉ bằng vài nét nhưng lại hiện ra đầy chân thực và sinh động. Giữa bối cảnh thiên nhiên bao la ấy, thấp thoáng bóng dáng con người và hơi hướng cuộc sống nhưng cũng chỉ ít ỏi, mờ nhạt, xa vời Lom khom dưới núi tiều vài chú, Lác đác bên sông chợ mấy nhà Nhà thơ đã dùng nghệ thuật đảo ngữ để nhấn mạnh đặc trưng của cảnh vật và con người ở đèo Ngang. Dáng vẻ lom khom của mấy chú tiều hái củi sườn non khiến cho con người càng thêm nhỏ bé trước thiên nhiên cao rộng. Chợ vốn là nơi biểu hiện đời sống của một cộng đồng làng xã nên thường tấp nập đông vui, nhưng ở đây nó chỉ là mấy túp lều xơ xác bên sông… Tâm sự của tác giả càng lúc càng rõ nét qua hai câu “luận” Nhớ nước đau lòng con quốc quốc, Thương nhà mỏi miệng cái gia gia Bức tranh phong cảnh ở Đèo Ngang chẳng những có màu sắc của cảnh vật mà còn trở nên da diết với âm thanh của các loài chim như con chim quốc, con chim đa đa… Tiếng chim quốc như nhắc nhở mọi người về điển tích vua Thục Đế hóa thành con chim quốc để luôn nhớ đến nỗi đau mất nước của mình. Em thật khâm phục nghệ thuật đối ý, đối lời trong hai câu thơ này vì khi ghép lại với nhau, người đọc nhận ra ngay được tâm sự của nhà thơ “Nhớ thương nước nhà, quốc gia quốc gia”. Với kết cấu đầu cuối tương ứng, hai câu kết khép lại những tâm trạng của thi nhân Dừng chân đứng lại trời, non, nước Một mảnh tình riêng ta với ta Cảnh vật khiến dừng bước chân trên con đường đến Phú Xuân. Cái bao la của đất trời, cái hùng vĩ của núi non, cái mênh mông của sông nước như níu bước chân nữ thi sĩ. Nhưng đứng trước không gian bao la của đèo Ngang, tác giả chợt nhận ra nỗi cô đơn trong lòng mình dần lấp đầy tâm hồn, bao trùm lên mọi cảnh vật “một mảnh tình riêng ta với ta”. Khung cảnh thiên nhiên càng rộng lớn bao nhiêu thì nỗi cô đơn của người lữ khách càng vơi đầy. Một mảnh tình riêng, một tâm tư sâu kín, những tâm trong lòng mà chẳng tìm nổi một người để sẻ chia. Nỗi buồn cứ vậy lắng vào cảnh vật, tâm trạng kéo dài miên man. Chỉ có “ta” và “ta” giữa mênh mông trời đất. “Qua đèo Ngang” là lời nhắn gửi tâm sự của nỗi lòng tác giả đến người đọc. Bài thơ không chỉ là một bức tranh thiên nhiên hùng vĩ đượm nét buồn mà còn là những tiếc nuối, một tấm lòng yêu nước thương dân. Phải thật giàu cảm xúc, thật yêu thiên nhiên cùng con người, Bà Huyện Thanh Quan mới có thể để lại những vần thơ tuyệt tác như vậy.
1. Sơ đồ tóm tắt gợi ý 2. Dàn bài chi tiết a. Mở bài - Giới thiệu về Bà Huyện Thanh Quan, nội dung chính bài thơ Qua Đèo Ngang. b. Thân bài * Hai câu đề Cảnh vật thiên nhiên nơi Đèo Ngang - Thời gian “Bóng xế tà”, đây là thời điểm kết thúc của một ngày, khi con người thường trở về nhà sau một ngày lao động vất vả. Vậy mà nhà thơ lại một mình tại nơi đèo Ngang càng khiến cho nỗi cô đơn trở nên tột cùng. - Khung cảnh thiên nhiên Đèo Ngang “Cỏ cây chen đá, lá chen hoa” là hình ảnh ước lệ mang tính biểu tượng. Điệp từ “chen” kết hợp với hình ảnh “đá, lá, hoa” gợi ra một thiên nhiên tuy hoang sơ nhưng lại tràn đầy sức sống. => Khung cảnh thiên nhiên Đèo Ngang được nhà thơ khắc họa chỉ bằng vài nét nhưng lại hiện ra đầy chân thực và sinh động. * Hai câu thực Cuộc sống con người nơi Đèo Ngang - Giữa thiên nhiên hoang sơ và rộng lớn con người xuất hiện Nghệ thuật đảo ngữ Lom khom - tiều vài chú hình ảnh vài chú tiều với dáng đứng lom khom dưới chân núi. Lác đác - chợ mấy nhà hình ảnh vài căn nhà nhỏ bé thưa thớt, lác đác bên sông. => Nhấn mạnh vào sự nhỏ bé của con người trước thiên nhiên rộng lớn. Con người chỉ nằm là một chấm buồn lặng lẽ giữa một thiên nhiên rộng lớn. Cảnh vật và con người dường như có sự xa cách khiến cho không khí càng thêm hoang vu, cô quạnh. * Hai câu luận Tâm trạng nhớ nhà của nhà thơ khi đứng trước Đèo Ngang - Hình ảnh “con quốc quốc” và “cái gia gia” không chỉ là hình ảnh thực về hai loại chim chim đỗ quyên, chim đa đa. - Mà ở đây, nhà thơ đã sử dụng thủ pháp lấy động tả tĩnh tiếng kêu “quốc quốc”, “đa đa” để qua đó bộc lộ nỗi lòng nhớ thương của mình với đất nước, quê hương. => Hai câu thơ diễn tả nhớ nhung sâu đậm của Bà Huyện Thanh Quan. * Hai câu kết Nỗi cô đơn tột cùng của nhà thơ - Câu thơ “Dừng chân đứng lại, trời, non, nước” khắc họa hình ảnh nhà thơ một mình đứng tại nơi Đèo Ngang, đưa mắt nhìn ra xa cũng chỉ thấy thiên nhiên rộng lớn phía trước có bầu trời, có núi non, dòng sông. - Sự cô đơn của nhà thơ “một mảnh tình riêng” - tình cảm riêng tư của nhà thơ không có ai để chia sẻ, “ta với ta” - đều chỉ nhà thơ, lúc này bà chỉ có một mình đối diện với chính mình, cô đơn và lẻ loi. => Hai câu kết khẳng định lại nỗi cô đơn, trống trải của tác giả trước thiên nhiên rộng lớn. c. Mở bài - Khẳng định lại giá trị nội dung và nghệ thuật của bài thơ Qua Đèo Ngang. 3. Bài văn mẫu Đề bài Em hãy viết bài văn ngắn phân tích bài thơ Qua Đèo Ngang của Bà Huyện Thanh Quan. Gợi ý làm bài Bài văn mẫu số 1 Bà Huyện Thanh Quan một trong những nữ văn sĩ nổi tiếng của văn học trung đại Việt Nam. Thơ văn bà để lại cho hậu thế không còn nhiều, trong đó nổi tiếng nhất là phải kể đến bài Qua đèo Ngang. Đây là bài thơ tả cảnh ngụ tình, bộc lộ nỗi niềm, tâm trạng của bà khi trên đường vào kinh đô Huế nhận chức. Mở đầu bài thơ là bức tranh phong cảnh thấm đẫm nỗi buồn hiu quạnh “Bước đến đèo Ngang bóng xế tà Cỏ cây chen đá, lá chen hoa” Hai câu thơ mở ra không gian, thời gian nghệ thuật quen thuộc trong thơ trung đại, đây đồng thời cũng là nét đặc trưng phong cách của Bà Huyện Thanh Quan chiều tà và bóng hoàng hôn. Thời gian là buổi chiều nhưng không phải là lúc đầu hôm mà là chiều tà, thời điểm chuyển giao giữa chiều và tối, ánh nắng chỉ còn nhạt nhòa và sắp lặn. Không gian mênh mông, rộng lớn, với cả trời, non, nước nhưng tất cả đều im ắng, vắng lặng đến rợn ngợp. Trong không gian đó, hình ảnh cây cối, hoa cỏ hiện lên có phần hoang dại, chúng chen chúc nhau mọc lên. Từ “chen” gợi sức sống mãnh liệt của muôn loài trước cái cằn cỗi của đất đai, cái khắc nghiệt của thời tiết. Đồng thời từ này còn gợi lên thiên nhiên có phần hoang dã, vô trật tự. Không gian và thiên nhiên cây cỏ hòa quyện vào nhau càng làm sâu đậm thêm ấn tượng về mảnh đất hoang vu. Bức tranh được điểm thêm hơi thở, sự sống của con người “Lom khom dưới núi tiều vài chú Lác đác bên sông chợ mấy nhà” Những tưởng rằng với sự xuất hiện của sự sống con người quang cảnh sẽ bớt vắng lặng, cô đơn hơn nhưng thực tế lại không phải vậy. Sự xuất hiện của con người trái lại càng khiến cảnh vật thêm phần heo hút, hoang vắng hơn. Nghệ thuật đảo ngữ nhấn mạnh vào dáng “lom khom” của những chú tiều, cái “lác đác” của mấy ngôi nhà ven sông kết hợp các từ chỉ số lượng ít ỏi “vài”, “mấy” khiến cho hình bóng con người đã nhỏ lại càng nhỏ hơn, cuộc sống đã hiu quạnh lại càng hiu quạnh hơn. Bức tranh về một thế giới cô liêu hiện lên rõ hơn bao giờ hết. Nhìn lại cả hai câu thơ ta thấy chúng có đầy đủ các yếu tố của một bức tranh sơn thủy, hữu tình núi, sông, tiều phu, chợ. Thế nhưng những yếu tố ấy khi hợp lại với nhau và khúc xạ qua cảm nhận của nhà thơ lại gợi lên một miền sơn cước hiu quạnh, heo hút. Tiếp đến, Bà Huyện Thanh Quan đã bộc lộ tâm trạng của mình khi đứng trước đèo Ngang “Nhớ nước đau lòng con cuốc cuốc Thương nhà mỏi miệng cái gia gia” Giữa chốn rừng sâu vắng lặng, vang lên tiếng chim cuốc đau lòng não ruột. Đó cũng có thể là thanh âm thật là hay là tiếng lòng trong tâm trạng nhà thơ. Mượn bút pháp ước lệ và nghệ thuật chơi chữ để nói lên tiếng lòng mình trước cảnh. Tiếng chim kêu làm tăng phần cô quạnh, phải chăng đó là tâm trạng hoài vọng nhớ thương nước nhà? Cái bao la, vô tận của non nước làm chơi vơi bóng hình một mình giữa thiên nhiên, hồn cảnh - hồn người như hòa lẫn vào nhau, làm nỗi buồn da diết bị lắng đọng cùng. “Dừng chân đứng lại trời non nước Một mảnh tình riêng ta với ta” Tiếng lòng non nước thấm thía, không san sẻ buộc nhà thơ thốt lên giãi bày "ta với ta" nghe chua xót. Chỉ ta mới hiểu được lòng ta, sự cô đơn như tăng lên gấp bội. Dù sầu muội như bà Huyện Thanh Quan vẫn cảm nhận được vẻ đẹp non nước dù nơi dừng chân có vẻ hoang sơ, nhưng đã tô lên vẻ đẹp hùng vĩ, bao la của núi rừng. Bài thơ "Qua Đèo Ngang" vừa gợi lên một bức tranh về cảnh đẹp thiên nhiên núi rừng hoang sơ, hùng vĩ, vừa gợi ra khung cảnh sống giản dị, đơn sơ mà ấm áp. Từ đó mang lại những cảm xúc, nỗi niềm, riêng tư của tác giả với tình yêu quê hương, đất nước da diết khi xa quê hương, lẻ loi một bóng hình nơi đất khách quê người. Bài văn mẫu số 2 Trong nền văn học hiện đại nếu như chúng ta bắt gặp sự sắc sảo, mạnh mẽ, bứt phá trong thơ của Hồ Xuân Hương thì chắc hẳn rằng sẽ thấy được sự điềm tĩnh, nhẹ nhàng, trầm buồn của Bà Huyện Thanh Quan. Bài thơ “Qua đèo Ngang” tiêu biểu cho phong cách ấy. Bài thơ được sáng tác khi tác giả vào Phú Xuân Huế nhận chức và đi qua đèo này. Cảm hứng chủ đạo của bài thơ là nỗi buồn man mác, nhớ nhà, nhớ quê hương và thương cho thân gái nơi đường xa. Bài thơ được sáng tác theo thể thất ngôn bát cú với cấu trúc đề, thực, luận kết. Chỉ tám câu thơ nhưng nó đã diễn tả được hết cái thần thái, cái hồn của cảnh vật cũng như của con người khi đứng trước cảnh trời núi hiu quạnh và lòng người man mác như thế này. Hai câu đề gợi lên trước mắt người đọc khung cảnh hoang sơ nơi đèo Ngang “Bước tới đèo Ngang bóng xế tà Cỏ cây chen lá, lá chen hoa” Không gian và thời gian ở đèo Ngang được tác giả thể hiện qua từ "bóng xế tà". Có thể nói đây là thời gian là cảm xúc trong lòng người dường như nặng nề, gợi buồn, gợi sầu hơn. Trong ca dao, dân ca, chúng ta vẫn bắt gặp thời điểm chiều tả để đặc tả nỗi buồn không biết bày tỏ cùng ai. Mặt trời xuống núi, hoàng hôn sắp bao phủ lấy nơi này. Cảm giác cô đơn, lạc lõng. Cảnh vật thiên nhiên nơi đây dường như quạnh quẽ đến nao lòng. Chỉ có cỏ cây và hoa. Điệp từ "chen" dường như đã làm tăng thêm tính chất hiu quạnh của địa danh này. Hoa lá đang quấn quýt lấy nhau, bám chặt nhau để sống, sinh sôi. “Lom khom dưới núi tiều vài chú Lác đác bên sông chợ mấy nhà” Đến hai câu thực thì mới thấp thoáng hình ảnh con người, nhưng cũng chỉ là "tiều vài chú". Hóa ra chỉ là một vài chú tiều bé nhỏ đi nhặt củi ở dưới chân núi. Mặc dù có sự sống nhưng mong manh và hư vô quá. Với phép đảo trật tự cú pháp ở hai câu thơ này, Bà Huyện Thanh Quan đã một lần nữa nhấn mạnh sự hoang sơ, hiu quạnh của đèo Ngang. Ngoại cảnh đã hòa hợp với râm cảnh người nữ sĩ trong buổi chiều tà nơi đèo hút hút gió. Nữ sĩ đã sử dụng bút pháp miêu tả tượng trưng và ước lệ của thi pháp cổ ngư, tiều, canh, mục kết hợp với cảm hứng đầy thi cảm và sáng tạo. “Nhớ nước đau lòng con cuốc cuốc Thương nhà mỏi miệng cái gia gia” Nghệ thuật đối và đảo ngữ được sử dụng ở phần thực đã tiếp tục được phát huy tác dụng một cách triệt để ở phần luận. Đó là tiếng chim cuốc, chim đa trong bóng chiều tà. Đó là “nhớ nước đau lòng” và “thương nhà mỏi miệng” đã được đặt trong thế đăng đối và hòa hợp. Ý thơ đã thể hiện người nữ sĩ lấy ngoại cảnh để phô diễn tâm tình. Đây cũng là một nét đặc sắc và nổi bật trong phong cách sáng tác của bà huyện Thanh Quan. Thơ tả cảnh ngụ tình nên nhạc, nên họa đã diễn tả cảnh đèo Ngang lúc hoàng hôn với nỗi niềm thi sĩ làm ta cảm thương, vương vấn. “Dừng chân đứng lại trời, non, nước Một mảnh tình riêng ta với ta” Hai câu thơ kết cuối bài như dồn lại biết bao nhớ thương sâu lắng và dạt dào của người nữ sĩ trong khung cảnh chiều tà. Đứng một mình nơi đèo cao lộng gió trong buổi hoàng hôn, nữ sĩ thấy mình như sống trong tâm trạng lẻ bóng, cô đơn, giữa một khung cảnh thiên nhiên hoang vắng bao la của “trời, non, nước”. Hai chữ “đứng lại” diễn tả một tư thế, một tâm trạng xúc động và bồi hồi. “Ta với ta” là ba chữ đắt giá kết hợp với điệp ngữ láy âm, đặt trong mối tương phản với “trời, non, nước” đã cho thấy cái mênh mang bao la với sự lẻ loi, đơn côi và nhỏ bé của lòng người. Nó gợi lên một sự trống vắng không thể nào kể xiết. "Qua Đèo Ngang" là bài thơ Nôm kiệt tác được viết theo thể thơ thất ngôn bát cú Đường luật. Bài thơ đã cho thấy phong cách sáng tác của Bà Huyện Thanh Quan. -Mod Ngữ văn biên soạn và tổng hợp-
phân tích bài qua đèo ngang lớp 7